Bệnh tai biến mạch máu não ngày nay rất phổ biến, không những xảy ra ở người lớn tuổi mà còn xảy ra ở người trẻ. Bệnh để lại di chứng rất nặng nề làm ảnh hưởng đến cuộc sống, làm cho họ không thể trở lại với công việc trước đó của mình, họ có thể không nói được, không hiểu được, tay không cử động, chân không đi được…
>> Thói quen gây đột quỵ ở phụ nữ
Các di chứng của tai biến mạch máu não
Bị tai biến đôi khi có thể gây ra khuyết tật tạm thời hoặc vĩnh viễn, tùy thuộc vào thời gian não thiếu lưu lượng máu và phần nào bị ảnh hưởng. Các biến chứng có thể bao gồm:
Tai biến liệt nửa người
Bạn có thể bị tê liệt ở một bên cơ thể, hoặc mất kiểm soát một số cơ nhất định, chẳng hạn như những người ở một bên mặt hoặc một cánh tay. Vật lý trị liệu có thể giúp bạn trở lại các hoạt động bị ảnh hưởng bởi tê liệt, chẳng hạn như đi bộ, ăn uống và mặc quần áo.
Liệt nửa người nên không cử động được hoặc cử động hạn chế, từ đó dễ đưa đến nhiều biến chứng như: Loét do nằm lâu, viêm phổi, trật khớp vai, teo cơ, loãng xương do không vận động, co rút cơ dẫn đến cứng khớp, thường gặp ở khớp khuỷu, gối, cổ tay, cổ chân, các ngón tay, tình trạng gối duỗi quá, mất hoặc giảm cảm giác, tình trạng liệt mặt kéo dài ảnh hưởng chức năng ăn và uống, rối loạn ngôn ngữ…
Khó nói hoặc nuốt
Đột quỵ có thể ảnh hưởng đến việc kiểm soát các cơ trong miệng và cổ họng của bạn, khiến bạn khó nói chuyện rõ ràng (chứng khó đọc), nuốt (chứng khó nuốt) hoặc ăn. Bạn cũng có thể gặp khó khăn với ngôn ngữ (aphasia), bao gồm nói hoặc hiểu lời nói, đọc hoặc viết. Trị liệu với một nhà nghiên cứu bệnh học ngôn ngữ có thể giúp đỡ.
Mất trí nhớ hoặc suy nghĩ khó khăn
Nhiều người đã bị đột quỵ trải qua một số mất trí nhớ. Những người khác có thể gặp khó khăn trong việc suy nghĩ, đưa ra phán xét, lý luận và hiểu các khái niệm.
Vấn đề về cảm xúc
Những người bị đột quỵ có thể gặp khó khăn hơn trong việc kiểm soát cảm xúc, hoặc họ có thể bị trầm cảm.
Đau đớn
Đau, tê hoặc cảm giác lạ khác có thể xảy ra ở các bộ phận của cơ thể bị ảnh hưởng bởi đột quỵ. Ví dụ, nếu đột quỵ khiến bạn mất cảm giác ở cánh tay trái, bạn có thể phát triển cảm giác ngứa ran khó chịu ở cánh tay đó.
Mọi người cũng có thể nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ, đặc biệt là cực lạnh, sau đột quỵ. Biến chứng này được gọi là đau đột quỵ trung tâm hoặc hội chứng đau trung tâm. Tình trạng này thường phát triển vài tuần sau đột quỵ, và nó có thể cải thiện theo thời gian. Nhưng bởi vì cơn đau được gây ra bởi một vấn đề trong não của bạn, chứ không phải là một chấn thương thực thể, có rất ít phương pháp điều trị.
Thay đổi hành vi và khả năng tự chăm sóc
Những người đã bị đột quỵ có thể trở nên thu mình hơn và ít giao tiếp hơn hoặc bốc đồng hơn. Họ có thể cần giúp đỡ với việc chải chuốt và công việc hàng ngày.
Làm thế nào với những di chứng tai biến mạch máu não?
Để sống chung với các biến chứng như đã nói phần trên, gia đình người thân bệnh nhân cần có giải pháp như sau:
- Tạo cho người bệnh với buồng bệnh phải đủ rộng, thoáng mát, đủ ánh sáng, tránh đặt người bệnh bên liệt hướng vào vách tường, vật dụng đặt về một phía bên liệt;
- Chống loét bằng cách xoay trở người bệnh ít nhất mỗi 2 giờ một lần. Hoặc nên dùng đệm chống loét là tốt nhất.
- Chống ứ đọng đờm dãi. Đặt người bệnh nằm đầu cao, nghiêng về một bên, hút đàm rãi thường xuyên, vỗ lưng – vai cho người bệnh;
- Tập vận động phần chi liệt và chi không liệt; kiểm tra thường xuyên vùng khớp cổ chân, gối, khuỷu, bàn tay và các ngón tay để đề phòng cứng khớp; khi cho bệnh nhân đứng cần chú ý tới vùng khớp gối, cố gắng giữ cho đầu gối thẳng và song song với chân lành; dùng các kích thích da người bệnh như: Vuốt, vỗ nhẹ… tập vận động vùng mặt, massage và giữ mặt ấm; tập cho người bệnh phát âm như: a, o, e…, tập nói. Ngoài tập thường xuyên cho người bệnh, việc đặt đúng tư thế người bệnh cũng vô cùng quan trọng.
- Thức ăn phải cân đối và đáp ứng đủ các chất cần thiết như chất đạm (thịt, cá, trứng, đậu hũ…), chất bột đường (gạo, mì, bánh mì…), chất béo (dầu, mỡ) vitamin và chất xơ (rau củ quả và trái cây).
Tóm lại, để đem lại kết quả tốt cho người bệnh phải có sự kết hợp chặt chẽ của nhóm phục hồi, người nhà người bệnh cùng với sự hợp tác tốt của người bệnh ngay trong thời gian đầu khi người bệnh nhập viện cho đến khi người bệnh thích ứng với khả năng còn lại của mình.