Ung thư di căn xương

Nhắc đến ung thư di căn, nhiều người coi đó là “án tử”. Với trường hợp ung thư di căn xương, điều này có lặp lại? Bệnh nhân có thể điều trị như thế nào? Bạn hãy tìm hiểu ngay nhé!

Ung thư di căn xương là gì?

Ung thư di căn xương là một hậu quả nghiêm trọng của ung thư nói chung. Tất cả các loại ung thư đều có thể di căn vào xương, song gặp chủ yếu từ các ung thư biểu mô như ung thư vú ở nữ, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư phổi, ung thư dạ dày.

Cơ chế bệnh sinh

Xương là kho chứa lượng lớn các yếu tố tăng trưởng tại chỗ như TGF- beta (transforming growth factor), FGF (firoblast growth factor), I-LGF I (insulin- like growth factor), PTHrP (PTH related protein)…

Khi tế bào ung thư di căn vào xương, chúng tạo ra phân tử kết dính trên bề mặt tế bào để gắn với tế bào đệm (stroma) của mạng lưới xương. Việc gắn kết này sẽ kích thích các tế bào đệm, tiền tạo cốt bào, tế bào miễn dịch tiết ra các yếu tố tăng trưởng (enzym) bao gồm: các cytokin (IL1, IL6) , TNF (tumor necrosis factor), TGF EGF (epidermal growth factor), PTHrP (parathyroid hormon – related protein), I-LGF I (insulin – like growth factor), yếu tố hoạt hóa đại thực bào, RANK (receptor activator ò nuclear factor Kb).

Những enzym này có thể tác động trực tiếp, song phần lớn phải thông qua sự hiện diện của tạo cốt bào mới kích thích được hủy cốt bào hoạt động gây hủy xương, đồng thời thúc đẩy tạo cốt bào tạo xương mới.

Quá trình tiêu xương của hủy cốt bào lại kích thích tế bào ung thư phát triển tạo ra vòn xoắn bệnh lý làm cho qua rối loạn chuyến hóa xương càng nặng hơn.

Như vậy, hai quá trình tiêu xương và hủy xương đồng thời xảy ra ở vị trí di căn xương, song tùy theo đặc tính của tế bào ung thư mà quá trình hủy xương lớn hơn tạo xương hoặc ngược lại.

Triệu chứng lâm sàng ung thư di căn xương

1. Biểu hiện toàn thân

  • Tuổi:

Ung thư di căn xương thường gặp ở tuổi trên 50, bệnh rất hiếm gặp ở thanh niên và trẻ em. Theo Tosiaki, A. Nina (2000) nghiên cứu trên 74 bệnh nhân ung thư các loại có di căn xương thì tuổi trung bình là 59. Một nghiên cứu khác của PN. Scuttellari (2000) trên 100 bệnh nhân ung thư di căn xương có tuổi trung bình là 63 tuổi.

Tại Việt Nam, theo Lê Chí Dũng có nghiên cứu trên 524 bệnh nhân ung thư di căn xương từ 1955 – 2002 tuổi trên 50 chiếm đến 343/524 (65.5%). Di căn xương ở trẻ thường từ u nguyên bào thần kinh, sarcom xương.

  • Thời gian:

Thời gian từ khi phát hiện ung thư nguyên phát đến khi có di căn xương có thể vài tháng, vài năm, hoặc đồng thời xuất hiện ung thư di căn xương và ung thư nguyên phát, có những trường hợp phát hiện được di căn ung thư vào xương nhưng không tìm được ổ nguyên phát. Tùy thuộc bản chất ung thư nguyên phát, giai đoạn bệnh lúc mới chẩn đoán mà thời gian xuất hiện ung thư di căn xương là khác nhau.

Theo A. Buruti và cộng sự (2000) cho thấy 20% bệnh nhân có biểu hiện ung thư di căn xương vào thời điểm được chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến.

  • Vị trí di căn:

Trong ung thư di căn xương, vị trí di căn vào cột sống chiếm tỷ lệ cao nhất (80%, trong đó hay gặp nhất là cột sống thắt lưng), tiếp đến là khung chậu, đầu trên xương đùi (chiếm 40%), xương sườn (chiếm 30%), và xương sọ (chiếm 20%). Chit có 2 – 5% có di căn ở xương ngoại biên (cẳng bàn tay, cẳng bàn chân), trên 90% bệnh nhân có di căn xương vào xương trục.

Tùy theo loại ung thư nguyên phát mà có tỉ lệ các vị trí di căn khác nhau: di căn cột sống thắt lưng, khung chậu hay gặp ở nhưng ung thư trong tiểu khung (ung thư tiền liệt tuyến, tử cung, buồng trứng), di căn xương sườn hay gặp trong ung thư vú, ung thư phổi và có đến 50% di căn vào các xương ngoại vi (cẳng bàn tay, cẳng bàn chân) gặp trong ung thư phổi.

  • Biểu hiện khác:

Biểu hiện toàn thân có thể có như: mệt mỏi, chán ăn, gầy sút cân nhiều và nhanh, thiếu máu (đặc biệt khi ung thư di căn vào tủy xương). Yếu cơ, buồn nôn, táo bón, khát, có thể lú lẫn, hôn mê là các biểu hiện của tăng calci máu.

2. Đau xương khớp              

  • Biểu hiện:

Khi ung thư phát triển, xâm lấn và di căn thường gây ra đau đớn dữ dội cho người bệnh đến tận lúc tử vong. Đau xương khớp là triệu chứng phổ biến nhất của ung thư di căn xương. Đây là dấu hiệu gợi ý di căn vào xương ở những bệnh nhân đã biết ung thư nguyên phát. Khoảng trên 80% bệnh nhân ung thư di căn xương có biểu hiện đau xương.

Tuy nhiên, đau xương khớp có thể gặp trong nhiều nguyên nhân khác nhau như

+ Lao xương khớp

+ Đa u tủy xương

+ Hoại tử chỏm xương đùi vô khuẩn

+ Thoái hóa khớp

+ Loãng xương

Mặt khác, có những trường hợp di căn xương mà không có biểu hiện đau hoặc đau rất nhẹ. Theo Schaberg và Gainor (1985), 36% bệnh nhân có di căn cột sống mà không có biểu hiện đau xương.

  • Cơ chế:

Cơ chế đau trong ung thư di căn xương có 2 cơ chế chính:

+ Đau liên quan đến khối u di căn: kiểu đau này thường đau về nửa đêm, gần sáng khiến bệnh nhân phải thức giấc trong đêm vì đau và có thể giảm dần sau những hoạt động trong ngày. Kiều đau này do các yếu tố gây viêm như seretonin và do kích thích màng xương, vì vậy đau giảm khi dùng corticoid.

+ Đau theo kiểu cơ học: những tổn thương xương khớp do di căn ung thư gây nên bất thường về cấu trúc giải phẫu như lún, xẹp thân đốt sống, chèn ép thần kinh gây nên kiểu đau cơ học. Đau tăng khi vận động, đi lại bị hạn chế, đặc biệt những động tác làm tăng sức ép của cột sống.

+ Với bệnh nhân ung thư di căn xương, đa số các trường hợp đau là sự phối hợp của 2 kiểu đau trên.

  • Cường độ đau:

Đau trong ung thư di căn xương thường đau nặng, nghiêm trọng, gây trở ngại lớn cho bệnh nhân và bác sĩ vì đáp ứng kém với thuốc giảm đau thông thường. Để đánh giá mức độ đau trên lâm sàng có nhiều thang diểm đánh giá đau, mỗi loại có những dặc tính riêng. Phổ biến nhất là thang điểm VAS (Visual Analog Scales), dễ áp dụng cho tất cả các loại ung thư. Tuy nhiên nhược điểm của VAS là chỉ dựa vào yếu tố chủ quan của bệnh nhân. Thang điểm này được chia thành 10 vạch (Từ 0 đến 10, tương ứng 10cm), mỗi vạch lại chia nhỏ thành 10mm (tổng 100mm), mỗi vạch tương ứng cường độ đau của bệnh nhân tăng dần (vạch 0 là không đau, vạch 10 là đau tối đa). Trong ung thư di căn xương thường bệnh nhân đau trên 7 điểm.

  • Vị trí đau:

Thường đau nhiều vị trí khác nhau, vị trí hay gặp là cột sống, khung chậu, khớp háng.

3. Các biểu hiện thần kinh

  • Biểu hiện

Những biểu hiện thần kinh có thể do khối ung thư di căn chèn ép trực tiếp, có thể do tổn thương thân đốt sống (lún, xẹp) gây chèn ép thứ phát. Sự xâm lấn, chèn ép thần kinh, không những gây đau đớn mà còn gây các biến chứng thần kinh khác như liệt vận động, rối loạn cảm giác, rối loạn cơ tròn.

Tùy đoạn tủy hay rễ thần kinh bị chèn ép mà có những biểu hiện lâm sàng đoạn tủy chi phối.

  • Vị trí đau:

Đau thần kinh tọa một hoặc hai bên: đau vùng thắt lưng lan dọc xuống đùi, cảng bàn chân theo đường đi thần kinh toạ, nghiệm pháp Valleix (+), Lasegue (+).

  • Cường độ đau:

Giảm hoặc tăng phản xạ gân xương (tùy theo ép rễ hay ép tủy), có thể có rối loạn cảm giác hoặc rối loạn cơ tròn.

4. Gãy xương bệnh lý

Gãy xương bệnh lý là tình trạng gãy xương tại những vị trí đã có tổn thương từ trước mà không do sang chấn hoặc sang chấn rất nhẹ. Có thể gãy các xương dài, đốt sống biểu hiện ở dạng lún, xẹp.

Xương bị di căn trở nên rất yếu, dễ gãy, đôi khi gãy xương là triệu chứng đầu tiên của ung thư di căn xương. Vị trí thường gặp là các xương dài ở tay, chân và cột sống.

5. Di căn cơ quan khác ngoài xương

Ung thư di căn xương được coi là di căn xa của một ung thư, là giai đoạn cuối của một ung thư. Một bệnh nhân có thể phát hiện ung thư di căn nhiều cơ quan, tuy nhiên có thể chỉ phát hiện ung thư di căn xương mà chưa di căn cơ quan khác.

Triệu chứng lâm sàng

1. Một số biển hiện xét nghiệm có thể gặp:

  • Các xét nghiệm về bilan viêm:

Trong ung thư di căn xương, các xét nghiệm máu lắng, protein C phản ứng (CRP) đều tăng, thậm chí tăng khá cao.

  • Tăng phosphatase kiềm máu

Điều này thể hiện sự hủy xương mạnh của hủy cốt bào, đôi khi có biểu hiện tăng phosphatse acid thể hiện tăng quá trình tạo xương của tạo cốt bào (thường gặp trong ung thư tiền liệt tuyến di căn xương).

  • Tăng calci máu

Xảy ra khi có sự hủy xương nhiều. Đây là triệu chứng gặp khá phổ biến trong ung thư di căn xương. Đôi khi có biểu hiện lâm sàng nguy hiểm tính mạng như: yếu cơ, buồn nôn, táo bón, khát, có thể lú lẫn, hôn mê, rối loạn nhịp tim.

  • Thiếu máu

Thiếu máu có thể do di căn tủy xương gây suy tủy, do suy  dinh dưỡng.

  • Xác định dấu ấn ung thư

Hiện nay, việc xác định dấu ấn ung thư rất có giá trị không những cho chẩn đoán, tiên lượng các ung thư (UT) nguyên phát mà còn có giá trị trong việc chẩn đoán vị trí ung thư di căn xương, tùy theo loại ung thư nguyên phát mà có dấu ấn khác nhau như:

+ Dùng kháng thể đơn dòng (đặc hiệu từng loại kháng nguyên ung thư) có gắn chất phóng xạ đánh dấu để tìm vị trí di căn xương. Một số dấu ấn UT như PSA (ung thư tuyến tiền liệt), alpha FP (ung thư gan), CEA (dạ dày), CA125 (ung thư buồng trứng)…

+ Dùng phương pháp miễn dịch phóng xạ định lượng các chất trong chuyển hóa xương khi có ung thư di căn xương. Các chất đó gồm: PINP (propeptid of type I procollagen, thể hiện sự hoạt động của tạo cốt bào) và ICTP (Carboxy terminal pyridinolin cross-linked telopeptif of type I collagen). Phương pháp này có độ nhạy 71%, độ đặc hiệu 42% trong việc phát hiện ung thư di căn xương.

2. Chẩn đoán hình ảnh

a. X quang quy ước

So với các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác thì X-quang quy ước xương có độ nhạy và độ đặc hiệu thấp hơn nhiều trong việc chẩn đoán ung thư di căn xương. Theo DJ. Peres (1983) độ nhạy của X-quang là 15%.

Hình ảnh tổn thương trên X-quang quy ước xuất hiện chậm nhiều tuần hoặc nhiều tháng so với lâm sàng và xạ hình xương. Những tổn thương trên 1 cm và mất trên 50% chất khoáng trong xương (dạng hủy xương) hoặc tăng trêm 30% chất khoáng trong xương (dạng kết đặc xương) thì mới phát hiện được trên X-quang. Do vậy, khi hình ảnh X-quang điển hình thì ung thư di căn xương đã ở giai đoạn muộn.

ung-thu-di-can-xuong

Biểu hiện trên X-quang: tiêu xương, kết đặc xương và thể hỗn hợp (kết hợp giữa tiêu và đặc xương). If these are not 1xBet free bets, but another type of promotion that the bookmaker has sent, then you should check the combination in a special section. 1xbet is clearly not a rising star anymore. We decided to offer you a unique promo code for 1xbet unlocking a 130$ bonus. It is activated during account creation. Thanks to this, you can bet not only your money, but bonus money, the number of which will depend on the amount of the first deposit, but not more than the limit indicated on the site.

  • Thể tiêu xương:

Đây là thể hay gặp nhất, có thể có các hình thái khác nhau:

+ Hình hốc không cản quang, đồng đều, thường có giới hạn rõ, tròn hoặc bầu dục kích thước 1-2cm, đôi khi rất nhỏ. Thường có nhiều tổn thương làm cho xương có hình ảnh “mối gặm”. Hình thái này thấy ở thân xương dài, vòm sọ. Đôi khi tổn thương là những vùng không cản quang, ranh giới không rõ, thường ở khung chậu. Với những tổn thương tiêu xương thì hình thái tổn thương, bờ viền ổ tổn thương có giá trị gợi ý độ lành tính, ác tính của tổn thương. Năm 1980, Lodwick đã đưa ra bảng phân độ tổn thương xương trên X quang (độ càng cao thì độ ác tính càng cao).

+ Hình ảnh xóa một đoạn xương, gặp ở cuống hoặc cung sau đốt sống (đốt sống chột mắt), xóa mất một phần thân đốt sống, hoặc một đoạn ngành ngồi háng.

  • Thể tạo xương (còn gọi là kết đặc xương)

Thường gặp trong ung thư tiền liệt tuyến và một số cơ quan khác như ung thư vú, phổi. Tổn thương hay khu trú ở xương chậu và đốt sống với các biểu hiện như:

+ Những điểm mờ, đám mờ có bờ viền không rõ rệt khi tổn thương nhỏ và nhiều làm cho xương có hình tháu như bông.

+ Hình ảnh đốt sống đậm đặc.

  • Thể hỗn hợp

Đây là thể phối hợp cả tiêu xương và đặc xương. Tổn thương xương trong ung thư di căn xương thường gặp nhất là dạng hủy xương. Dạng tổn thương hủy xương hoặc kết đặc xương chiếm ưu thế tùy theo ung thư nguyên phát: dạng hủy xương thường gặp trong ung thư thận, tuyến giáp, vú, phổi. Dạng kết đặc xương thường gặp trong ung thư tuyến tiền liệt. Dạng hồn hợp thường xảy ra trong ung thư vú.

b. Chụp xạ hình xương

Đây được coi là phương pháp lựa chọn đầu tiên để đánh giá ung thư di căn xương. Phương pháp này cho phép khảo sát toàn bộ hệ thống xương, có khả năng phát hiện tổn thương sớm hơn X quang nhiều tháng (trên 6 tháng). Xạ hình xương có độ nhạy cao, tuy nhiên có hạn chế là độ đặc hiệu không cao, những tổn thương xương lành tính cũng có thể biểu hiện tăng hoạt tính phóng xạ trên xạ hình xương (viêm xương, chấn thương, thoái khớp…).

Để phân biệt những hình ảnh tổn thương trên xạ hình xương cần phân tích tổn thương về số lượng ổ tổn thương, cách phân bố, mức độ tăng hoạt tính phóng xạ, đôi khi cần tiến hành chụp SPECT đánh giá sự tưới máu qua 3 pha chụp. Những tổn thương lành tính thường đơn độc, những ổ viêm xương thường tăng hoạt tính phóng xạ trên cả 3 pha chụp (gynamic, blood pool và static). Theo MM. Steinborn và cộng sự (1999) đưa ra độ nhạy là 84,4% và độ đặc hiệu là 72%.

Hình ảnh điển hỉnh ung thư di căn xương là hình ảnh tăng hoạt tính phóng xạ đa ổ với hình dạng, kích cỡ và tỉ trọng khác nhau, phân bố không đối xứng, không đều, rải rác trên toàn bộ hệ thống xương đặc biệt trên cột sống.

Hình ảnh không điển hình ung thư di căn xương như: những tổn thương đơn độc tăng hoạt tính phóng xạ (hot spot). Khoảng 6-8% bệnh nhân di căn xương nói chung là dạng đơn độc. Tuy nhiên, theo DI. Boxer và cộng sự (1989) thì 20% bệnh nhân ung thư vú có di căn xương ở dạng đơn độc. Xác suất ổ tổn thương đơn độc là tổn thương ung thư di căn rất khác nhau giữa các vị trí trên cơ thể. Theo Corcoran và cộng sự (1986) thì những tổn thương đơn độc ở sọ 50% là ung thư, tổn thương ở cột sống thì 80% là ung thư, trong khi đó tổn thương đơn độc ở xương sườn chỉ có 12% là ung thư. Trong một số trường hợp tăng hoạt tính phóng xạ lan tỏa trên toàn bộ hệ xương, hình ảnh thận bị mờ hay còn gọi là “superscan”.

c. Phương pháp chẩn đoán khác

  • Chụp cắt lớp vi tính (CT), chụp cộng hưởng từ (MRI)

Các phương pháp này có độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn so với xạ hình xương trong việc phát hiện ung thư di căn xương tại các vị trí nghi ngờ. Tuy nhiên, phương pháp này có hạn chế là không khảo sát được toàn thân và giá thành đắt. Theo MM. Steinborn và cộng sự (1999) độ nhạy của MRI là 91.4% , xạ hình xương 84.8%. Nghiên cứu của Eustace và cộng sự (1997) cũng cho kết quả tương tự 96% với MRI và 72% với xạ hình xương.

CT và MRI rất có giá trị trong việc đánh giá những tổn thương chi tiết tại tủy xương mà xạ hình xương không phát hiện được. Toshiaki Taoda và cộng sự (2000) nghiên cứu tổn thương di căn cột sống của 74 bệnh nhân ung thư các loại bằng hai phương pháp xạ hình xương và MRI cho thấy kích thước khối u trung bình mà xạ hình xương phát hiện được là 11,2 mm và 6,6 mm với MRI. Ung thư di căn xương biểu hiện trên MRI là những ổ tổn thương không rõ ranh giới, giảm tín hiệu trên T1, tăng tín hiệu trên T2 và ngấm thuốc đối quang từ mạnh sau tiêm thuốc.

  • SPECT và PET

Đây là từ viết tắt của Single photon emission computing tomography và Position Emission Tomography. Những phương pháp này giúp phát hiện ung thư di căn xương sớm hơn so với xạ hình xương phẳng (khi ung thư mới chỉ khu trú trong tủy xương). SPECT và PET cung cấp những hình ảnh trong không gian ba chiều và cho biết cả rối loạn chức năng tại vùng tổn thương, đặc biệt là FDG-PET (fluoro-deoxy-glucose, position emission tomography). Tuy nhiên giá thành rất cao, hiện chưa thực hiện được ở Việt Nam.

  • Sinh thiết xương và giải phẫu bệnh

Những tổn thương đơn độc mà các phương pháp chẩn đoán hình ảnh chưa đủ kết luận, cần tiến hành sinh thiết xét nghiệm mô bệnh học nhằm chẩn đoán xác định. Sinh thiết giải phẫu bệnh là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán. Tuy nhiên độ nhạy của phương pháp này không cao do thường không lấy được chính xác tổn thương. Ngày nay, nhờ có hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính định hướng kim sinh thiết nên khả năng sinh thiết đúng khối u rất cao.

Có một số dạng ung thư di căn có thể xác định được khối u nguyên phát do tế bào này biệt hóa kém, vẫn giữ được hình thái tế bào tổ chức như ung thư tế bào sáng của thận, ung thư tuyến giáp dạng nang, ung thư tuyến nhầy của ruột. Tuy vậy, đa số kết quả sinh thiết ung thư di căn xương thường cho biết tổ chức ung thư biểu mô hay ung thư mô liên kết, rất khó xác định ung thư nguyên phát.

Điều trị

1. Mục đích điều trị:

– Điều trị triệu chứng: giảm đau, điều trị gãy xương, tăng calci máu… từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống.

– Ngăn chặn hoặc làm giảm quá trình hủy xương, làm chậm quá trình tiến triển của bệnh.

2. Phương pháp điều trị:

a. Liệu pháp hormon:

Đặc biệt có giá trị với các loại ung thư các tuyến nội tiết như ung thư vú, ung thư tiền liệt tuyến. Liệu pháp hormon làm cải thiện được thời gian sống thêm cho người bệnh . Theo M. Bolla và cộng sự (2002) cho thấy 78% bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn tiến triển sống trên 5 năm khi được điều trị liệu pháp hormon kết hợp xạ trị so với 62% bệnh nhân chỉ được điều trị xạ trị.

b. Bisphosphonates

Có rất nhiều nghiên cứu chứng minh bisphophonates có tác dụng ức chế hoạt động hủy xương của hủy cốt bào đồng thời kích thích tạo cốt bào tạo xương, điều hòa lại quá trình chuyển hóa xương, làm cho xương trở nên chắc khỏe hơn. Ngoài ram chúng còn có tác dụng giảm đau, điều trị tăng calci máu rất tốt. Những nghiên cứu gần đây còn cho thấy bisphosphonates có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của tế bào ung thư di căn. Theo H. Flavio và cộng sự (2003) diều trị clodronat trong 6 tháng cho 32 bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến có di căn xương thấy rằng: 29/32 (90.6%) bệnh nhân có cải thiện triệu chứng đau (VAS trung bình trước điều trị 7.7, sau điều trị 2.1), nâng cao được bậc thang thể trạng. Có nhiều thế hệ thuốc, càng về sau thuốc càng ưu việt về tác dụng. Những thế hệ đầu chỉ có đường uống nên kém hiệu quả hơn như clodronat, etidronat, alendronat, thế hệ sau có dạng truyền tĩnh mạch có hiệu quả rất tốt trong điều trị ung thư di căn xương như pamidronat (Aredia), Zoledronat (Zometa).

c. Xạ trị ngoài

Đât là phương pháp đã được áp dụng từ lâu. Chiếu xạ vào những vùng di căn với mục đich giảm đau, hạn chế sự phát triển của khối u.

d. Xạ trị trong

Dùng dược chất phóng xạ để xạ trị trong với mục đích giảm đau trong ung thư di căn xương. Ngày nay người ta đã sử dụng được chất phóng xạ để điều trị rất có hiệu quả. Phổ biến là Strontium-89 và P32 (phosphorous-32), Samarium153. Theo RG. Robinson và cộng sự (1995) cho thấy 60-80% bệnh nhân được điều trị Sr89 có giảm đau sau 1-3 tuần điều trị và kéo dài 3-6 tháng. Theo Hoàng Văn Tuyết (2004) điều trị P-32 cho 60 bệnh nhân ung thư có di căn xương thấy: 52/60 (86.67%) có đáp ứng giảm đau, giảm đau tốt nhất trong 2 tuần đầu (66.7%).

e. Tác nhân sinh học

Dùng tác nhân sinh học tác động theo cơ chế bệnh sinh đang được nghiên cứu áp dụng. Osteoprotogerin (OPG) là một tác nhân sinh học có vai trò điều hòa rối loạn chuyển hóa xương trong ung thư di căn xương đang được nghiên cứu trên thực nghiệm.

Tiên lượng

Ung thư di căn xương được coi là di căn xa của một ung thư. Thời gian sống thêm phụ thuộc vào nhiều yếu tố: ung thư nguyên phát, độ biệt hóa của ung thư nguyên phát, mức độ di căn, toàn trạng bệnh nhân, tình hình điều trị. Thời gian sống thêm rất hạn chế.

Theo RT. Greenle và cộng sự (2000) thời gian sống thêm trung bình của ung thư tiền liệt tuyến di căn xương là 2 năm. Theo Katagiri thời gian sống thêm của bệnh nhân ung thư vú có di căn xương trung bình là 24 tháng. Trong khi đó, thời gian sống thêm của bệnh nhân ung thư phổi có di căn xương không quá 6 tháng.

Để kéo dài sự sống cho người bệnh ung thu di can xuong, bệnh nhân cần được khám và điều trị tích cực. iMedicare chúc bạn và gia đình mạnh khỏe!

GIỎ HÀNG

ĐÓNG
Scroll To Top