Loạn sản xơ xương là tình trạng rối loạn xương ít phổ biến, chỉ chiếm khoảng 5% u xương lành tính. Bệnh thường xảy ra ở tuổi thiếu niên, từ 3 – 15 tuổi. Loạn sản xơ xương dễ gây biến chứng, điển hình là biến dạng xương, đau xương và gãy xương nếu không kịp thời điều trị. Hãy cùng iMediCare loạn sản xơ xương là gì?
Loạn sản xơ xương là gì?
Loạn sản xơ xương (Fibrous dysplasia of bone) là bệnh mạn tính, trong đó mô xương bình thường bị thay thế bởi các mô xơ. Đây là bệnh lý không di truyền. Trong hầu hết các trường hợp, loạn sản xơ xương chỉ ảnh hưởng đến một xương đơn – thường là xương sọ hoặc xương dài ở tay hoặc chân. Loại này thường xảy ra ở thanh thiếu niên. Những người có nhiều hơn 1 xương bị ảnh hưởng thường phát triển các triệu chứng trước 10 tuổi.
Nguyên nhân gây bệnh?
Loạn sản xơ xương là kết quả của đột biến ngẫu nhiên gen GNAS ở vị trí nhiễm sắc thể 20 của tạo cốt bào. Các tạo cốt bào ít biệt hoá này còn tăng sản xuất interleukinIL-6, làm tăng hoạt động của các tế bào huỷ xương, gây nên các tổn thương tiêu xương duới dạng các hốc xương trong mô xơ cũng như trong xương lành quanh đó. Một hoặc nhiều vùng xương không trưởng thành bình thường và vẫn ở dạng bè xương non, khoáng hoá kém xắp xếp bất thường, rải rác trong mô sợi loạn sản. Khi xương phát triển, mô xơ mềm lan rộng, làm xương yếu đi, biến dạng và dễ gãy.
Triệu chứng của loạn sản cơ xương
Loạn sản xơ xương nhẹ có thể gây ra ít hoặc không có triệu chứng. Trường hợp nặng hơn, người bệnh có thể:
- Đau xương
- Xương biến dạng
- Gãy xương bệnh lý
- Khó khăn đi lại, còi xương
Trong một số ít trường hợp, loạn sản xơ xương có thể liên quan đến những bất thường trong tuyến nội tiết gây ra các vấn đề:
- Dậy thì sớm
- Các vấn đề về tuyến giáp như cường giáp, cường cận giáp, hội chứng Cushing, tổn thương tuyến yên
- Điểm sáng nâu trên da
Chuẩn đoán bệnh loạn sản cơ xương như thế nào?
Các phương pháp chẩn đoán có thể bao gồm:
+ Xquang: giúp chẩn đoán tổn thương tại vị trí nghi ngờ. Bác sĩ có thể chỉ định các phương pháp khác để xác định mức độ loạn sản.
+ Chụp cộng hưởng từ CT: Đánh giá tiến triển của tổn thương xương, đặc biệt ở những vị trí phức tạp như cột sống, khung chậu, lồng ngực hay xương sọ mặt, cũng như lan rộng tổn thương ra phần mềm cạnh cột sống.
+ Cộng hưởng từ hạt nhân: Đánh giá sự tiến triển của tổn thương, khả năng gãy xương bệnh lý, khả năng ác tính hóa của tổn thương xương, hay đánh giá tình trạng ép tủy khi cột sống bị tổn thương. MRI tiêm gadolinium cũng có thể đánh giá tình trạng tái phát sau mổ.
+ Xạ hình xương bằng T-99: Tăng hấp thụ phóng xạ tại vùng tổn thương tiến triển, giúp xác định cả các tổn thương không có triệu chứng. Tuy nhiên hình ảnh tổnthương không đặc hiệu.
+ Xét nghiệm mô bệnh học: Về mặt đại thể, u xương là một khối rắn chắc có màu trắng, hay sẫm màu. Về mặt vi thể, xương bệnh lý bao gồm hỗn hợp mô xơ chưa trưởng thành và các mảnh nhỏ xương bè chưa trưởng thành, có dạng các chữ cái Trung hoa.
+ Xét nghiệm máu: Tăng nồng độ men phosphatase kiềm. Xét nghiệm nước tiểu cho thấy tăng nồng độ hydroxyprolin. Tuy nhiên các bất thường này không đặc hiệu cho LSXX.
+ Sinh thiết. Sử dụng kim rỗng để loại bỏ một phần nhỏ xương bị ảnh hưởng để phân tích trong phòng thí nghiệm.
Các loại loạn sản cơ xương:
Thể một ổ:
70% bệnh nhân chỉ có tổn thương một xương. Bệnh thường phát hiện ở người trưởng thành, trong độ tuổi 20-30. Các xương hay bị tổn thương nhất là xương sườn, xương sọ, mặt, đặc biệt xương hàm, hành xương hay thân xương của đầu trên xương đùi hay xương chày. Ða số (95%) bệnh tự ổn định sau khi trưởng thành, tổn thương không lớn lên nữa
Thể đa ổ (30% trường hợp):
Bệnh nặng hơn với tổn thương nhiều nơi và lan rộng, gây nhiều triệu chứng và biến chứng. Bệnh thường phát hiện sớm dưới 10 tuổi. Thường là một phía của cơ thể bị mắc bệnh. Tuy nhiên khoảng 1/4 bệnh nhân tổn thương dạng đa xương bị tổn thương hơn một nửa khung xương, đặc biệt ở chi dưới. Tổn thương xương mặt gặp ở 1/2 bệnh nhân có tổn thương xương nhiều nơi. Khi tổn thương xương sọ mặt bệnh nhân có thể có các triệu chứng chèn ép thần kinh mạch máu như đau đầu, ù tai, bất thường thần kinh sọ não, thậm chí chảy máu sọ não tự phát. Loạn sản xương thái dương có thể giảm thính lực và bịt tắc hốc tai ngoài.
Thể đa ổ có thể kết hợp dậy thì sớm, loạn sản xơ xương và đám da màu cà phê sữa, gọi là hội chứng Albright hay u nhày trong cơ vân ( hội chứng Mazabraud).
Về mặt tiên lượng: Thể một ổ có tiên lượng tốt. Tổn thương đa ổ có xu hướng tiến triển nặng lên, đôi khi có thể bị ác tính hóa thành sarcom xương hay sarcom sợi.
Điều trị loạn sản cơ xương:
Nếu bạn có chứng loạn sản xơ xương nhẹ, được phát hiện một cách tình cờ và không có dấu hiệu hoặc triệu chứng, nguy cơ bị dị dạng hoặc gãy xương khá thấp. Trong trường hợp này, bác sĩ có thể yêu cầu theo dõi bằng cách chụp X-quang định kỳ.
Sử dụng thuốc: Thuốc loãng xương có thể giúp tăng cường xương bị ảnh hưởng bởi loạn sản xơ xương, giúp giảm đau và giảm nguy cơ gãy xương.
Có thể dùng các thuốc nhóm bisphosphonat để giảm đau xương mạn tính, tăng mật độ xương cột sống và xương đùi, làm giảm nguy cơ gãy xương.
Bổ sung canxi và vitamin D khi điều trị biphosphonat để tránh cường cận giáp thứ phát.
Điều trị các rối loạn nội tiết như: hội chứng cường giáp trạng, hội chứng Cushing, đái tháo đường, dậy thì sớm kèm theo bằng các thuốc thích hợp hay phẫu thuật nếu có chỉ định.
Phẫu thuật: Phẫu thuật tùy thuộc vào vị trí xương bị tổn thương, bao gồm nạo vét tổn thương, mổ kết hợp xương, ghép xương tự thân hay xương đồng loại, chỉnh hình và cố định bằng đóng đinh, nẹp vít.