Bệnh lao sơ nhiễm là bệnh thường gặp ở trẻ em, đặc biệt là trẻ từ 1 đến 5 tuổi, bệnh rất ít gặp ở người lớn. Bệnh ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển cơ thể trẻ. Có thể gây ra những hậu quả nặng nề nếu lao sơ nhiễm chuyển thành lao kê, lao phổi, lao màng não. Triệu chứng lao sơ nhiễm ở trẻ rất đa dạng, phong phú, có thể cấp tính hoặc từ từ. Ở trẻ có biểu hiện cấp tính: trẻ sốt cao 39 – 400C, kèm theo nôn, co giật, ban đỏ ngoài da… Sốt kéo dài trên 3 tuần.
1.Nguyên nhân
Lao sơ nhiễm thường gặp ở trẻ chưa tiêm vacxin phòng lao hoặc đã tiêm nhưng chưa đủ liều gây miễn dịch.
Vi khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể gây tổn thương sơ nhiễm bằng ba con đường:
- Đường hô hấp: Do hít phải các giọt nước bọt có chứa từ 1 đến 2 vi khuẩn lao mà người bị lao phổi do khạc bắn ra bên ngoài.
- Đường tiêu hóa: Lây nhiễm theo con đường này phần lớn là do uống phải sữa tươi của những con bò bị lao vú chưa tiệt trùng hoặc tiệt trùng không đúng nguyên tắc. Do nuốt phải vi khuẩn lao lẫn trong thức ăn, đồ uống khác. Thế đặc biệt là lao sơ nhiễm bấm sinh, do thai nhi nuốt phái nước ối hoặc dịch âm đạo có vi khuẩn lao, do người mẹ bị lao nội mạc từ cung hoặc lao âm đạo.
- Đường da – niêm mạc: Lây nhiễm theo đường này hiếm gặp hơn, vi khuẩn lao có thể xâm nhập vào nhưng vùng da sây sát, chảy máu hoặc những vùng niêm mạc mắt, họng… bị tổn thương.
Vi khuẩn lao gây tốn thương sơ nhiễm ớ những nơi xâm nhập: phế nang phối, niêm mạc ruột, mắt, họng hoặc, da hình thành ố loét sơ nhiễm; sau đó theo đường bạch huyết lan vào các hạch khu vực, phát triển ở đây tạo thành phức hợp sơ nhiễm.
2.Triệu chứng
Các triệu chứng thường không rõ ràng, không có biểu hiện rầm rộ.
- Triệu chứng toàn thân: Biếng ăn, sụt cân hay chậm lên cân, đố mồ hôi lúc ngủ dù khi trời lạnh, sốt kéo dài hay sốt tái đi tái lại.
- Gác triệu chúng hô hấp thường gặp: Ho kéo dài, ho tái đi tái lại, thỏ khò khè, khó thỏ. Gác triệu chứng này do sung các hạch bên trong lồng ngực, làm chèn ép bên trong lồng ngực. Các triệu chứng này có thể làm trẻ được chẩn đoán ban đầu nhầm với các bệnh lý hô hấp khác.
- Các triệu chứng ít gặp khác: Hồng ban nút ở da, viêm kết mạc phóng nước ở mắt, tiêu chảy kéo dài, sưng hạch trong ố bụng, nốt loét ở da,…
- Lao sơ nhiễm có thể gây ra các biến chứng nặng hơn như lao phổi, xẹp phổi, giãn phế quản hay các dạng bệnh lao nặng hơn như lao màng não, lao màng bụng, lao xương , lao thận,…
Các triệu chứng nghi ngờ trẻ mắc lao sơ nhiễm: Sốt kéo dài hay có các đợt sốt tái đi tái lại, chậm lớn, sụt cân, đổ mồ hôi trộm, ho kéo dài, khò khè kéo dài; hoặc trẻ được chẩn đoán hen suyễn hay viêm phế quản nhưng điều trị liên tục mà vẫn không thấy hết, hoặc có giảm ho một thời gian có người bị bệnh lao phổi thì rất nhiều khả năng là trẻ bị lao sơ nhiễm. Lúc này, bé cần được đưa đến các phòng khám chuyên về lao và hô hấp để được tầm soát bệnh.
Các xét nghiệm mà bác sĩ có thể tìm chẩn đoán lao sơ nhiễm:
- Chụp phim X-quang phổi
- Soi đờm tìm vi trùng lao (ở những trẻ khạc đờm được), hay lấy dịch dạ dày tìm vi trùng lao (ở những trẻ không khạc được đờm).
- Phản ứng lao tổ
- Chụp CT scan ngực
Trừ trường hợp tìm thấy vi trùng lao trong đờm hay dịch dạ dày, tất cả các xét nghiệm đều là gợi ý. Bác sĩ có thể phải dựa vào nhiều các yếu tố: triệu chứng bệnh của bé, xét nghiệm, sự đáp ứng với các điều trị trước đây, nguồn lây lao,… để có thể chẩn đoán được bệnh.
Lao sơ nhiễm khó chẩn đoán
- Triệu chứng bệnh thường mơ hồ, không rõ ràng. Trẻ có thể chỉ có biểu hiện một hay hai triệu chứng của lao sơ nhiễm. Chẳng hạn như: trẻ có thể chỉ có biểu hiện duy nhất là chậm lớn hay sụt cân, cha mẹ ít chú ý đến triệu chứng nên không đưa trẻ đi khám bệnh; hoặc trẻ có thể chỉ có biểu hiện duy nhất là khò khè kéo dài, khiến trẻ có thể được chẩn đoán nhầm với viêm phế quản hay viêm tiểu phế quản, hen suyễn. Vì thế, việc đưa trẻ đi khám tầm soát lao, khi trẻ có tiếp xúc với người bệnh lao, là rất quan trọng.
- Ngoài ra, các xét nghiệm hạn chế do ít khi tìm thấy vi trùng lao ở trẻ, trẻ nhỏ không khạc được đờm. Xét nghiệm tối tân như CT scan ngực thì hữu ích trong việc chẩn đoán bệnh, nhưng vừa đắt tiền lại vừa làm trẻ bị nhiễm tia phóng xạ nhiều hơn.
3.Cách phòng và điều trị
– Cho trẻ tiêm phòng lao. Tiêm phòng lao giúp trẻ giảm nguy cơ mắc bệnh lao, đặc biệt là thể lao nặng như lao màng não, chứ không phải tiêm phòng lao rồi thì sẽ không bị mắc bệnh lao.
– Kiểm soát lao: Những người có tiếp xúc với người bệnh lao phổi thì nên được khám tầm soát lao, đặc biệt là trẻ nhỏ, dù cho không có triệu chứng gì, vì một số trường hợp trẻ sẽ không có triệu chứng gì cho đến khi cơ thể phát bệnh lao nặng.
– Nếu trong gia đình có người bệnh lao phổi thì cần áp dụng các biện pháp vệ sinh để tránh lây nhiễm lao cho người khác (ở phòng riêng, ăn uống riêng, đeo khẩu trang, rửa tay thường xuyên). Tránh cho trẻ tiếp xúc với người bệnh lao phổi.
– Tăng cường sức đề kháng của cơ thể (chống suy dinh dưỡng).
– Giữ nhà cửa thông thoáng.
– Bản thân người bệnh lao phổi: Cần ý thức tránh lây lan cho cộng đồng bằng cách đeo khẩu trang khi tiếp xúc với người khác, che miệng khi ho, khạc nhổ, không khạc nhổ bừa bãi, rửa tay thường xuyên.
-Trẻ mắc lao sơ nhiễm cần được điều trị bằng thuốc kháng lao. Trẻ được uống thuốc lao hàng ngày, trong thời gian ít nhất 6 tháng. Thuốc lao có nhiều tác dụng phụ, do đó trẻ cần được theo dõi, tái khám đầy đủ theo hẹn của bác sĩ trong quá trình dùng thuốc, để đánh giá kết quả điều trị cũng như giải quyết những tác dụng phụ của thuốc lao nếu có.