Bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn còn được gọi là viêm khớp sinh mủ, có thể lây truyền qua đường máu. Bạn đã biết những thông tin liên quan đến bệnh cơ xương khớp này và cách chữa trị?
Bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn là gì?
Bệnh viêm khớp nhiễm khuẩn (VKNK – septic arthritis) hay còn gọi là viêm khớp sinh mủ (pyogenic arthritis). Đây là bệnh viêm khớp do vi khuẩn sinh mủ không đặc hiệu (không phải do lao, phong, nấm, ký sinh trùng hay virus) gây nên.
Nguyên nhân
Bệnh hay gặp nhất là do tụ cầu (Staphylococus) đặc biệt là tụ cầu vàng (S. aureus) (chiếm 50 – 70%), liên cầu (Streptococcus) như S.pneumoniae, liên cầu tan huyết beta (S. pyogenes); phế cầu (Pneumococcus); lậu cầu (Neisseria gonorrhoeae). Vi khuẩn gram âm (chiếm 15%): E. coli, thương hàn (Samonella), trực khuẩn mủ xanh (P.aeruginosa), Haemophilus infuenza. Một số vi khuẩn ít gặp như Borrelia burgdorferi gây bệnh lyme. Có khoảng 10% trường hợp nhiễm đồng thời nhiều loại vi khuẩn, thường gặp sau chấn thương.
Đường lây nhiễm
Phần lớn mắc viêm khớp do vi khuẩn lan truyền theo đường máu xâm nhập vào khớp. Có thể theo đường kế cận từ nhiễm khuẩn xương hoặc phần mềm cạnh khớp. Hoặc nhiễm khuẩn trực tiếp sau chấn thương, sau tiêm khớp hoặc sau phẫu thuật.
Triệu chứng và chẩn đoán
Bệnh nhân có thể có tiền sử khỏe mạnh. Tuy nhiên có tỷ lệ cao các trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn xảy ra trên nền bệnh nhân mắc các bệnh như viêm khớp dạng thấp, bệnh lý mạch máu, suy giảm miễn dịch, đái tháo đường, dùng corticoid kéo dài, loét da do viêm mạch, do tỳ đè…
Vị trí tổn thương:
- 90% bệnh nhân có tổn thương một khớp, trong đó có khớp gối hay gặp nhất, ít gặp hơn là các khớp háng, vai, cổ tay, cổ chân, khủy tay…
- Các khớp nhỏ của bàn tay hay bàn chân thường gặp trong những trường hợp tiêm tại chỗ trực tiếp hoặc do động vật cắn.
- Trong trường hợp bệnh nhân có tiền sử dùng thuốc truyền đường tĩnh mạch, tỷ lệ viêm khớp cột sống, viêm khớp cùng chậu, khớp ức đòn cao hơn viêm các khớp ngoại biên.
- Viêm nhiễm khuẩn nhiều khớp hay gặp nhất ở những bệnh nhân viêm khớp dạng thấp.
Trong thực tế hay gặp 2 bệnh cảnh lâm sàng: viêm khớp nhiễm khuẩn không phải do lậu cầu và do lậu cầu.
a. Nhiễm khuẩn khớp không do lậu cầu
-
Triệu chứng tại khớp
Viêm khớp biểu hiện bởi các triệu chứng sưng, nóng, đỏ, đau. Có thể có tràn dịch khớp, co cơ, hạn chế vận động. Tuy nhiên nếu khớp nằm ở vị trí sâu như khớp háng hoặc khớp cùng chậu thì khó phát hiện sưng khớp. Có thể gặp viêm mô tế bào, viêm bao thanh dịch, cốt tủy viêm cấp với các triệu chứng lâm sàng tương tự. Tuy nhiên các bệnh cảnh trên có thể phân biệt với viêm khớp nhiễm khuẩn ở đặc điểm thường bênh nhân không hoặc ít hạn chế vận động khớp.
-
Triệu chứng ngoài khớp
Hội chứng nhiễm trùng: sốt cao trên 38oC, có khi đến 40oC hoặc hơn. Có khi bệnh nhân rét run. Tuy nhiên sốt cao không thường gặp ở những bệnh nhân già yếu, suy giảm miễn dịch hoặc đang mắc bệnh viêm khớp dạng thấp.
-
Triệu chứng lâm sàng
+ Xét nghiệm công thức máu ngoại biên: thường tăng số lượng bạch cầu. Tỷ lệ bạch cầu trung tính tăng.
+ X-quang quy ước: trong giai đoạn sớm thấy hình ảnh sưng nề phần mềm, khe khớp có thể rộng do tràn dịch. Trường hợp muộn hơn thì khe khớp hẹp, hủy hai đầu xương đối diện (hình ảnh soi gương). Có thể có dính, biến dạng khớp (thường ở giai đoạn rất muộn).
+ Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính (CT Scan), cộng hưởng từ MRI có tác dụng phát hiện những tràn dịch khớp ở vị trí sâu như khớp háng, hoặc viêm khớp cùng chậu.
+ Cấy máu nhằm phát hiện vi khuẩn gây bệnh và làm kháng sinh đồ phục vụ cho điều trị. Khoảng 50% trường hợp nhiễm khuẩn do tụ cầu vàng cấy máu dương tính. Tuy nhiên tỷ lệ này thấp hơn so với các vi khuẩn khác.
+ Xét nghiệm dịch khớp rất quan trọng. Hút dịch khớp mù hoặc dưới hướng dẫn của siêu âm, CT scan.
Xét nghiệm đếm tế bào dịch khớp: bình thường dưới 180 tế bào/ml dịch với đa số là bạch cầu đơn nhân. Trong viêm khớp nhiễm khuẩn, tế bào dịch khớp có thể tăng tới 100.000 (25.000 – 250.000)/ml với đa số là bạch cầu đa nhân trung tính (>80-90%). Lưu ý có thể phát hiện tinh thể urat trong dịch khớp. Trong trường hợp này, không nên chỉ quan tâm đến bệnh gút mà cần xem có nhiễm khuẩn khớp không vì viêm khớp nhiễm khuẩn cũng thường xảy ra ở bệnh nhân gút.
Soi tươi, nhuộm gram tế bào dịch khớp có thể tìm thấy vi khuẩn gây bệnh. Cấy dịch khớp cho kết quả dương tính trên 90% bệnh nhân. Lưu ý cho dịch khớp vào chai dịch cấy máu có thể cho kết quả dương tính cao hơn.
b. Nhiễm khuẩn do lậu cầu
Có 2 bệnh cảnh lâm sàng trong nhiễm trùng do lậu cầu là
+ Hội chứng nhiễm khuẩn do lậu cầu (diseminated gonococcal infection syndrome) chiếm 2/3 trường hợp.
+ Viêm khớp thực sự do lậu cầu (true gonococcal septic artheistis) chiếm tỷ lệ 1/3.
-
Hội chứng nhiễm khuẩn do lậu cầu
Các triệu chứng thường bao gồm:
+ Rét run, sốt, ban đỏ và mụn mủ ngoài da cùng các triệu chứng khớp, triệu chứng tại các bộ phận sinh dục.
+ Một số ít bệnh nhân có ban ở thân mình hoặc ở mặt duỗi của chân phát triển thành mụn mủ xuất huyết.
+ Viêm khớp thường ở khớp nhỏ có tính chất di truyền. Viêm khớp kèm viêm bao hoạt dịch – gân ở gối, cổ tay, bàn tay, cổ chân, mắt cá chân.
+ Tổn thương ở da và khớp được xem là do phản ứng miễn dịch của cơ thể với sự xuất hiện của lậu cầu trong máu và lắng đọng phức hợp miễn dịch tại mô hơn là do bản thân vi khuẩn. Chính vì vậy, cấy dịch khớp thường âm tính.
Thường tràn dịch khớp với số lượng dịch ít, lượng tế bào dịch khớp cũng ít hơn trong các viêm khớp nhiễm khuẩn khác, khoảng từ 10.000 – 20.000 bạch cầu/ml.
-
Viêm khớp thực sự do lậu cầu
Trong trường hợp viêm khớp nhiễm khuẩn thực sự do lậu cầu, thường tổn thương một khớp lớn đơn độc như háng, gối, cổ tay, cổ chân. Dịch khớp có khoảng 50.000 bạch cầu/ml, lượng dịch nhiều.
Cấy dịch khớp (+) trên 40% trường hợp, nhuộm có thể dương tính (song cầu hình hạt café bắt gram âm).
Cấy máu thường âm tính. Cấy dịch tổn thương da từ đường sinh dục trong môi trường Thayer-Martin cho kết quả dương tính cao (50-80% trường hợp).
c. Chẩn đoán phân biệt viêm khớp nhiễm khuẩn
-
Viêm khớp do gút cấp:
Triệu chứng viêm rầm rộ, sưng nóng đỏ đau đột ngột. Các vị trí thường ở các khớp chi dưới, đặc biệt bàn ngón chân. Tuy nhiên khi hỏi tiền sử thường có những đợt viêm tương tự, thời gian kéo dài không quá 2 tuần, thường khởi phát sau bữa ăn thịnh soạn.
Điều trị bằng colchicin hoặc chống viêm giảm đau không steroid đáp ứng nhanh.
-
Viêm khớp do lao:
Triệu chứng viêm kém rầm rộ, sưng nóng đỏ đau. Triệu chứng toàn thân kín đáo: sốt nhẹ về chiều, gầy sút, hạch ngoại biên…. Bệnh nhân có thể gặp các lao ở vị trí khác (phổi).
-
Viêm khớp do virus, nấm, ký sinh trùng:
Dựa vào các triệu chứng lâm sàng, đặc biệt nuôi cấy phân lập nguyên nhân gây bệnh.
Soi, cấy dịch khớp luôn âm tính.
-
Cốt tủy viêm:
Có hình ảnh tổn thương viêm xương trên X quang, chụp cắt lớp vi tính…
Điều trị
a. Nguyên tắc điều trị
Chẩn đoán bệnh sớm. Dùng ngay kháng sinh đường tĩnh mạch. Dẫn lưu mủ khớp khi cần thiết. Bất động khớp tương đối có thể ngăn chặn được tình trạng hủy hoại khớp.
- Thực hiện ngay việc cấy máu, lấy dịch khớp. Làm xét nghiệm dịch khớp nhanh bằng phương pháp soi tươi nhuộm gram tìm vi khuẩn.
- Căn cứ kết quả soi tươi nhuộm gram kết hợp với các yếu tố nguy cơ dự đoán chủng vi khuẩn. Từ đó, lựa chọn ngay kháng sinh thích hợp- trước khi có kết quả cấy máu hoặc dịch khớp (thường có sau 3 – 5 ngày hoặc lâu hơn tùy loại vi khuẩn).
- Lưu ý: việc sử dụng kháng sinh tiêm trực tiếp vào khớp là không cần thiết vì tác dụng không tốt hơn. Thậm chí có thể gây nên tình trạng viêm khớp do tinh thể thuốc.
b. Điều trị cụ thể
-
Điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn không do lậu cầu
+ Khi chưa có kết quả cấy máu, dịch khớp và kháng sinh đồ, soi tươi nhuộn gram dịch khớp âm tính: dùng ngay kháng sinh cephalosporin thế hệ 3 đường tĩnh mạch (TM) như cephotaxim 3g/ngày chia 3 lần (cách 8 giờ một lần). Hoặc ceftriaxon 1-2 g một lần/ngày có thể bao phủ đầy đủ các nhiễm vi khuẩn thông thường (cộng đồng) ở người lớn.
+ Trường hợp soi tươi nhuộm gram dịch khớp phát hiện vi khuẩn gram dương: oxacillin hoặc nafcillin 2g mỗi 6 giờ mọt lần (6g/ngày). Hoặc clindamycin 2,4g tĩnh mạch/ngày chia 4 lần (mỗi 6 giờ một lần).
+ Nếu nghi ngờ nhiễm tụ cầu vàng kháng kháng sinh (ví dụ viêm khớp nhiễm khuẩn mắc phải ở bệnh viện), sử dụng vancomycin 2g/ngày chia 2 lần (pha với dung dịch đẳng trương truyền tĩnh mạch).
+ Những bệnh nhân nghi nhiễm trùng trực khuẩn mủ xanh (P. aeruginosa) hoặc nhiễm trùng khớp khi đang dùng thuốc khác đường truyền tĩnh mạch cần phối hợp thêm kháng sinh nhóm aminoglycosid (ví dụ gentamycin 3mg/kg/ngày – dùng một lần tiêm bắp vào buổi sáng ) hoặc cephalosporin thế hệ 3 (ví dụ ceftriaxon 1-2g, tĩnh mạch một lần trong ngày, hoặc ceftazidim 3g/ngày chia 3 lần).
+ Trường hợp cấy dịch khớp hoặc cấy máu dương tính thì việc điều trị theo kháng sinh đồ:
Với nhiễm khuẩn do tụ cầu vàng nhạy cảm với kháng sinh thì dùng oxacillin, hoặc nafcillin, hoặc clindamycin như trên. Trường hợp tụ cầu vàng kháng methicillin thì dùng vancomycin 2g/ngày chia 2 lần với thời gian khoảng 4 tuần.
Nhiễm khuẩn do phế cầu hoặc liên cầu do vi khuẩn nhậy với penicillin thì dùng penicillin G, 2 triệu đơn vị tĩnh mạch, mỗi 4 giờ trong 2 tuần. Do H. influenzae và S. pneumoniae kháng penicillin thì điều trị bằng ceftriaxon 1-2g, một lần/ngày hoặc cefotaxim 1g, 3 lần/ngày trong 2 tuần.
Phần lớn nhiễm khuẩn gram âm có thể chữa bằng một kháng sinh thế hệ 2 hoặc 3 tĩnh mạch trong 3-4 tuần hoặc thuốc nhóm fluoroquinolon như levofloxacin 500mg TM hoặc uống mỗi 24 giờ.
Nhiễm khuẩn trực khuẩn mủ xanh nên điều trị ít nhất 2 tuần phối hợp aminoglycosid với một kháng sinh penicillin phổ rộng như mezlocillin 3g tĩnh mạch mỗi giờ hoặc ceftazillin 1g mỗi 8 giờ. Thời gian dùng trong khoảng 2 tuần. Sau đó dùng kháng sinh fluoroquinolon như ciprofloxacin 750mg, uống 2 lần/ngày đơn độc hoặc phối hợp với một thuốc nhóm penicillin phổ rộng như trên, hoặc penicillin phổ rộng phổi hợp một thuốc nhóm aminoglycosid.
*Thời gian điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn tùy loại vi khuẩn, độ nhạy cảm, tình trạng kháng thuốc… Thông thường khoảng từ 1-2 tuần truyền tĩnh mạch sau đó chuyển sang đường uống bằng kháng sinh thích hợp. Liệu trình điều trị từ 2 – 4 tuần.
Dẫn lưu mủ và các chất bẩn bên trong dịch khớp rất cần thiết trong điều trị. Liệu pháp này có tác dụng giảm đau, giảm nguy cơ tạo vách ngăn, giảm nguy cơ hoại tử do làm giảm áp lực trong khớp, loại bỏ những chất gây viêm, loại bỏ một phần vi khuẩn trong khớp. Thậm chí chỉ bằng hút dịch khớp trong trường hợp khớp không tạo vách ngăn cũng cho kết quả tốt. Nội soi rửa khớp có thể tiến hành ngay hoặc sau khi hút dịch khớp không có kết quả.
Trong một số trường hợp cần phẫu thuật mở khớp để loại bỏ vách ngăn cũng như màng hoạt dịch, sụn khớp hay phần xương bị nhiễm khuẩn. Phẫu thuật mở khớp là điều trị tốt nhất cho nhiễm khuẩn khớp háng, đặc biệt ở trẻ em – đối tượng chỏm xương đùi dễ bị đe dọa bởi nhiễm khuẩn.
Không cần thiết bất động trong viêm khớp nhiễm khuẩn. Ngoại trừ chỉ định bất động trong trường hợp bệnh nhân rất đau mà điều trị thuốc toàn thân chưa khống chế được.
Lưu ý tập thụ động từng bước cho bệnh nhân có tác dụng chống dính khớp. Tuy nhiên cần tránh dồn lực lên khớp tổn thương trong trường hợp triệu chứng viêm chưa kiểm soát tốt. Việc kết hợp glucocorticoid với kháng sinh đã chứng tỏ cải thiện tiên lượng ở động vật thực nghiệm có nhiễm khuẩn tụ cầu vàng. Tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào tiến hành trên người được đánh giá đầy đủ.
-
Điều trị viêm khớp nhiễm khuẩn do lậu cầu
+ Trường hợp lậu cầu nhạy cảm penicillin có thể dùng amoxicillin uống 1500mg/ngày chia 3 lần. Hoặc dùng ciprofloxacin uống 1000mg chia 2 lần/ngày (ngoại trú).
+ Trường hợp nghi ngờ lậu cầu kháng penicillin: khởi đầu ceftriaxon 1g tĩnh mạch mỗi 24 giờ trong 7 ngày. Một khi triệu chứng tại chỗ và toàn thân kiểm soát tốt có thể chuyển dùng ciprofloxacin uống 500mg 2 lần/ngày. Hoặc spectinomycin 2g tiêm bắp mỗi 12 giờ/ngày trong 7 ngày.
Thường viêm mủ khớp gối do lậu cầu chỉ cần phối hợp kháng sinh 7-14 ngày kết hợp với hút dịch khớp là đủ. Hiếm khi cần nội soi rửa khớp hoặc phẫu thuật mở khớp. Trường hợp hội chứng nhiễm khuẩn do lậu cầu nên kháng sinh phối hợp điều trị cả Chlamydia trachomatis. Ngoại trừ trường hợp có bằng chứng chắc chắn là không bội nhiễm thêm vi khuẩn này.
Theo dõi – tiên lượng – dự phòng
a. Theo dõi
- Dựa vào triệu chứng lâm sàng: tình trạng viêm tại khớp và toàn thân.
- Dựa vào xét nghiệm:
+ Số lượng bạch cầu.
+ Tỷ lệ bạch cầu trung tính.
+ Tốc độ máu lắng.
+ Protein C phản ứng.
Nếu các chỉ số trên giảm là đáp ứng với điều trị.
b. Tiên lượng
Hầu hết viêm khớp nhiễm khuẩn do liên cầu khỏi không để lại di chứng. Tuy nhiên vi khuẩn do trực khuẩn gram âm hoặc do tụ cầu nói chung tiên lượng kém. Thường bệnh nhân vẫn đau hoặc hạn chế vận động dù nhiễm khuẩn đã được khống chế.
Những trường hợp nhiễm khuẩn điều trị muộn (thường sau 7 ngày) cũng tiên lượng xấu hơn. Trường hợp tổn thương khớp háng tiên lượng xấu hơn các khớp khác.
c. Dự phòng
Thực hiện vô trùng tuyệt đối khi làm các thủ thuật, phẫu thuật tiến hành tại khớp. Điều trị tốt các nhiễm khuẩn tại các cơ quan khác, đặc biệt tại da, phần mềm và xương.
Đối với bệnh lậu, phòng bằng cách thực hiện hành vi tình dục an toàn.
Điều trị benh viem khop nhiem khuan hiệu quả, triệu để hầu hết không để lại di chứng. Vì vậy nếu bạn đang mắc bệnh này, hãy nhanh chóng đến phòng khám, bệnh viện chuyên khoa cơ xương khớp để khám và điều trị sớm. Thiết bị y tế gia đình iMedicare chúc bạn mạnh khỏe!
>>> Xem thêm: Đai lưng cột sống chống đau lưng