Một trong những bệnh lý cơ xương khớp ảnh hưởng tới nhiều người chính là bệnh lý viêm điểm bám gân và phần mềm. Bạn đã tìm hiểu các thông tin liên quan đến bệnh này thật cụ thể và chi tiết? Hãy cùng tìm hiểu ngay thôi!
Bệnh lý viêm điểm bám gân và phần mềm là gì?
- Viêm gân (Tenoditis) là tình trạng viêm tại một gân.
- Viêm bao gân (Tenosynovitis): là tình trạng viêm bao hoạt dịch bao quanh gân, làm sưng đau và cản trở sự vận động của gân.
- Viêm điểm bám tận của gân: viêm quanh vùng bám tận của gân vào xương. Tại một số vị trí giải phẫu có dải mạc (vòng xơ) tạo với nền xương thành đường hầm. Trong đường hầm được lót bởi bao hoạt dịch bag trong cùng là gân, có thể có cả dây thần kinh và mạch máu. Khi bao hoạt dịch phía trong bị tổn thương sẽ sưng phồng lên và chèn ép các thành phần bên trong gây ra các triệu chứng gọi là hội chứng đường hầm.
Nguyên nhân gây bệnh
Các nguyên nhân gây bệnh lý viêm điểm bám gân và phần mềm:
- Các vi chấn thương do các hoạt động quá mức kéo dài, lặp đi lặp lại do nghề nghiệp, luyện tập thể thao, thói quen sinh hoạt. Đây là nguyên nhân gây bệnh thường gặp nhất.
- Một số bệnh lý:
+ Viêm khớp dạng thấp
+ Viêm cột sống dính khớp
+ Bệnh gút
+ Đái tháo đường.
- Các dị tật gây lệch trục của chi là một yếu tố nguy cơ gây tổn thương các phần mềm quanh khớp.
- Viêm phần mềm quanh khớp do nguyên nhân nhiễm khuẩn.
- Viêm gân do sử dụng thuốc: hay gặp do sử dụng thuốc kháng sinh thuộc nhóm quinolon.
Triệu chứng bệnh
a. Triệu chứng lâm sàng
Bệnh nhân mắc bệnh lý viêm điểm bám gân và phần mềm có các biểu hiện lâm sàng như sau:
- Đau ở vị trí gân bị tổn thương. Cơn đau có thể liên tục hoặc đau tăng khi vận động, đau tại chỗ hoặc lan dọc theo cơ có gân vị tổn thương, có thể gây hạn chế vận động khớp liên quan.
- Khám tại chỗ: Bệnh nhân có thể sưng hoặc không sưng, có thể nóng đỏ, ấn vào đau chói, có thể sờ thấy u cục nhỏ nổi dọc trên gân.
- Khám vận động: Bệnh nhân làm một số động tác co duỗi cơ có gân bị tổn thương thấy đau tăng, có thể hạn chế vận động khớp liên quan, cơ lực giảm hơn so với bên lành.
- Toàn thân: hầu hết các trường hợp không ảnh hưởng đến toàn thân. Ngoại trừ những trường hợp viêm gân do nhiễm khuẩn hoặc trong một số bệnh lý như viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp thì có thể có các biểu hiện kèm theo như hội chứng nhiễm trùng, các biểu hiện của bệnh chính.
b. Triệu chứng cận lâm sàng
-
Xét nghiệm máu:
Nhìn chung không có thay đổi trừ những trường hợp viêm gân hoặc bao gân trong các bệnh lý khác.
-
Chụp X quang:
Hầu như không có hình ảnh bất thường nếu như chỉ viêm gân hoặc bao gân thông thường. Nếu viêm gân hoặc bao gân trong những bệnh lý khác thì có thể có hình ảnh tổn thương khớp đặc hiệu với bệnh chính. Có thể thấy hình ảnh canxi hóa đầu gân.
-
Siêu âm gân
Siêu âm gân bằng đầu dò tần số cao (7.5 – 20 MHz, với khớp vai và khớp háng dùng đầu dò 3.5 – 5 MHz) giúp đánh giá phần mềm quanh khớp. Có thể thấy hình ảnh kích thước gân bị tổn thương to hơn, giảm âm và có thể có hình ảnh tụ dịch quanh gân bị tổn thương. Những trường hợp có đứt gân có thể thấy hình ảnh mất liên tục của gân. Có thể thấy hình ảnh canxi hóa ở đầu gân, có thể thấy hình ảnh bao gân day lên nếu có viêm bao gân. Tuy nhiên độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp siêu âm không cao, đặc biệt ở những vị trí khó đặt đầu dò hoặc ở những vị tri quá nông.
-
Chụp cộng hưởng từ
Chụp cộng hưởng từ cho thấy hình ảnh của toàn bộ khớp và phần mềm quanh khớp bị tổn thương. Do đó, giúp đánh giá chính xác được vị trí, kích thước, tình trạng tổn thương của gân và bao gân.
Phân loại bệnh
*Viêm gân vùng bám tận
Các vị trí viêm gân vùng bám tận:
- Viêm gân khu vực khuỷu tay: hay gặp nhất là lồi cầu ngoài xương cánh tay.
- Viêm gân khu vực háng: vùng các mấu chuyển, ụ ngồi.
- Viêm gân khu vực gối: lồi cầu trong và ngoài xương đùi.
- Viêm gân khu vực cổ chân: gân Achille.
*Viêm bao gân:
– Viêm bao gân co thắt đơn thuần: hay gặp hội chứng đường hầm cổ tay, hội chứng đường hầm ống gót.
– Viêm bao gân co thắt: hay gặp bệnh De Quervain là biểu hiện viêm bao gân cơ dạng dài và duỗi ngắn ngón tay cái.
*Viêm gân dạng nốt của gân gấp các ngón tay gân dấu hiệu ngón tay lò xo.
Chẩn đoán
a. Chẩn đoán xác định:
Chẩn đoán xác định bệnh chủ yếu dựa vào các triệu chứng lâm sàng tại chỗ bị tổn thương, siêu âm. Trong trường hợp chẩn đoán không rõ ràng, có thể phải sử dụng cộng hưởng từ.
b. Chẩn đoán phân biệt
Bác sĩ cần chẩn đoán phân biệt với một số tổn thương của những thành phần khác nhau quanh khớp ngoài gân và bao gân như: tổ chức dưới da, dây, rễ thần kinh, xương, màng xương…
Một số bệnh viêm gân thường gặp
a. Viêm lồi cầu ngoài xương cánh tay
Viêm cầu lồi ngoài xương cánh tay là điểm bám tận của gân các cơ duỗi chung các ngón, duỗi ngón út, trụ sau, ngửa ngắn…
Khám: Nhìn bên ngoài ít thay đổi, nếu bệnh nhân xoa bóp nhiều có thể thấy sưng nề nhẹ. Ấn nhẹ vào lồi cầu ngoài thấy đau chói, giảm cơ lực bên tổn thương.
*Conzens test:
– Bác sĩ đặt ngón tay cái lên lồi cầu ngoài xương cánh tay của bệnh nhân, giữ cố định khuỷu tay của bệnh nhân ở tư thế gấp 90o, tay còn lại nắm bàn tay bệnh nhân. Bệnh nhân sẽ thấy đau tại lồi cầu ngoài khi bác sĩ vận động úp sấp cẳng tay và khi bệnh nhân duỗi cổ tay có đối lực của bác sĩ.
Bác sĩ duổi thẳng khuỷu tay bệnh nhân, úp sấp cẳng tay và gấp cổ tay bệnh nhân ra ngoài sẽ gây đau tại lồi cầu ngoài.
*Cận lâm sàng:
– Xét nghiệm máu: nhìn chung không có thay đổi.
– Chụp X quang: hầu như không có hình ảnh bất thường. Có thể thấy hình ảnh canxi hóa ở đầu gân.
Phần lớn kéo dài một thời gian rồi tự khỏi nhưng hay tái phát, đặc biệt là những trường hợp có canxi hóa.
b. Viêm bao gân mỏm trâm xương quay (bệnh De Quervain)
Đây là bệnh lý viêm bao gân cơ dạng dài và duỗi ngắn ngón tay cái do bác sĩ phẫu thuật người Thụy Sĩ tên là De Quervain phát hiện năm 1895.
Bình thường cơ dạng dài và duôi ngắn ngón cái trượt dễ dàng trong bao gân. Khi bao này bị viêm sẽ chèn ép các thành phần bên trong gây đau và hạn chế vận động ngón cái.
-
Nguyên nhân:
Bệnh hay gặp ở phụ nữ. Nguyên nhân do vận động ngón cái quá mức kéo dài như giặt, bế con, dệt… Các nguyên nhân khác có thể gặp như chấn thương dạng ngón cái quá mức, viêm khớp dạng thấp, lao, sẹo sau phẫu thuật hoặc không rõ nguyên nhân.
-
Triệu chứng lâm sàng:
+ Sưng đau vùng mỏm trâm xương quay. Cơn đau tăng khi vận động ngón cái, đau liên tục, đau nhiều về đêm. Cơn đau có thể lan ra ngón cái và lan lên cẳng tay.
+ Sờ thấy bao gân phái ngoài mỏm trâm quay dầy lên. Có thể có nóng đỏ, ấn thấy đau chói.
+ Khi vận động ngón cái có thể nghe thấy tiếng kêu cót két.
+ Test Finkelstein: gấp ngón cái vào trong lòng bàn tay, nắm các ngón tay trùm lên ngón cái, uốn cổ tay nghiêng về phía trụ. Khi bệnh nhân thấy đau chói vùng gân dạng dài và gân duỗi ngón cái hay ở gốc ngón cái là triệu chứng của viêm bao gân De Quervain.
+ Siêu âm có thể thấy bao gân dầy lên và có dịch bao quanh…
c. Ngón tay lò xo
Ngón tay lò xo là tình trạng viêm bao gân của các gân gấp các ngón tay gây chít hẹp bao gân. Một số trường hợp gân gấp bị viêm xuất hiện cục xơ, làm di động gân gấp qua vùng ngón tay bị cản trở. Mỗi lần gấp hay duỗi ngón tay rất khó khăn. Bệnh nhân phải cố gắng mới bật được ngón tay ra hoặc phải dùng tay bên lành kéo ngón tay ra như kiểu ngón tay có lò xo. Vì vậy bệnh có tên là ngón tay lò xo.
-
Triệu chứng lâm sàng:
+ Đau ngón tay tại vị trí bao gân bị viêm và tại cục xơ, khó cử động ngón tay. Triệu chứng này nặng hươn vào buổi sáng, mới ngủ dậy.
+ Ngón tay có thể bị kẹt ở tư thế gấp vào lòng bàn tay hoặc duỗi thẳng. Có thể có tổn thương một hoặc nhiều ngón tay cùng một lúc.
+ Khám ngón tay có thể có sưng, sờ dọc gân gấp có thể thấy cục xơ dọc trên gân gấp ngón tay.
+ Thường sờ thấy cục xơ ở vị trí khớp đốt bàn ngón tay, cục xơ di động khi gấp duỗi ngón tay.
d. Hội chứng đường hầm cổ tay
Trong hội chứng đường hầm cổ tay, gân cơ gấp ngón cái dài nằm trong bao dịch quay, gân các cơ duỗi nông và sâu các ngón nằm trong bao hoạt dịch trụ, giữa hai bao hoạt dịch này là thần kinh giữa. Khi các bao hoạt dịch này bị viêm sẽ gây sưng nề chèn ép thần kinh giữa gây ra các triệu chứng đường hầm cổ tay.
-
Nguyên nhân:
+ Viêm khớp dạng thấp
+ Các chấn thương vùng cổ tay: gãy xương của nhóm xương cá, sai khớp xương bán nguyệt, gãy cổ tay kiểu Pouteau Colles.
+ Một số nghề nghiệp sử dụng cổ tay nhiều: ép, vặn xoay…
+ Nhiều trường hợp không rõ nguyên nhân.
-
Triệu chứng lâm sàng
+ Rối loạn cảm giác vùng thần kinh giữa chi phối. Bệnh nhân thấy tê và đau buốt ở các đầu ngón tay cái và ngón hai, ba và vùng gan tay, đặc biệt khi bệnh nhân làm động tác duỗi cổ tay, thường đau liên tục, tăng về đêm, nặng lên khi thời tiết lạnh.
+ Vùng cổ tay có thể sưng nhẹ so với bên lành.
+ Khám: làm một số nghiệm pháp làm tăng sức ép lên đường hầm.
+ Duỗi cổ tay hết cỡ, dùng búa phản xạ gõ vào vùng cổ tay gây nên tê và đau các ngón 1, 2, 3 và dọc ½ ngón 4 (dấu hiệu Tinel).
+ Dùng dây garo thắt chặt phần trên cẳng tay, sau một thời gian ngắn thấy đau như trên.
+ Nghiệm pháp gọng kìm của ngón cái và ngón trỏ thấy cơ lực giảm rõ so với bên lành.
+ Một số trường hợp nặng hoặc viêm kép dài sẽ thấy teo cơ mô cái và giảm cảm giác nông của các ngón 1, 2, 3 và ½ ngón 4.
-
Triệu chứng cận lâm sàng:
+ Điện cơ: có sự dẫn truyền bất thường của thần kinh giữa thuộc đoạn cẳng tay. Điện cơ giúp phân biệt với hội chứng rễ – dây thần kinh cột sống cổ, hội chứng đám rối thần kinh cánh tay.
+ Siêu âm bằng đầu dò tần số cao thấy dầy bao gân và dịch tụ quanh bao gân trong đường hầm cổ tay.
e. Viêm gân gót
-
Nguyên nhân:
Viêm gân gót phần lớn do hoạt động quá mức bàn chân như nhảy, đi giày cao gót… Ngoài ra, một số bệnh toàn thân như viêm khớp dạng thấp, đái tháo đường hoặc do dị tật lệch trục xương gót.
-
Triệu chứng lâm sàng
+ Triệu chứng đau là nổi bật. Cơn đau vùng gân gót, đau nhiều khi đi lại và khi kiễng chân, đau nhức nhối hoặc đau chói.
+ Khám gân gót thấy sưng rõ, ít nóng đỏ. Sờ có thể thấy nổi cục, ấn đau, gấp duỗi mạnh bàn chân thì đau tăng.
+ Trường hợp nặng có đứt gân từng phần hoặc toàn bộ làm bệnh nhân rất đau và mất khả năng đi bộ, không đứng được trên các ngón chân. Thử test Thompson thấy bất thường: cho bệnh nhân nằm sấp, hai chân để tự do (không tỳ vào bất kỳ vật gì). Bác sĩ dùng tay đè lên bắp chân bệnh nhân. Nếu không có đứt gân gót thì bàn chân sẽ duỗi nhẹ. Nếu có đứt gân gót thì bàn chân không cử động và có thể thấy có chỗ lõm xuống dọc gân gót (so với bên lành).
-
Triệu chứng cận lâm sàng:
+ Chụp X quang chỉ có vai trò chẩn đoán phân biệt với các tổn thương ở xương gót. Đôi khi trên phim nghiêng có thể thấy hình ảnh gân gót phồng to nhờ sự tương phản với tổn chức mỡ bao quanh gân.
+ Siêu âm gân gót thấy tăng kích thước, giảm đậm độ siêu âm do phù nề trong gân, bao gân dày lên, có thể có tụ dịch ngoài bao gân.
+ Chụp cộng hưởng từ MRI: tăng kích thước gân gót, bao gân dày lên, có thể đứt gân từng phần hoặc toàn bộ (biểu hiện ở các ổ bất thường tín hiệu trong gân). MRI cũng giúp cho chẩn đoán phân biệt với các tổn thương khác vùng cổ chân.
f. Viêm điểm bám gân đầu trên xương mác
Đó là biểu hiện của viêm đầu dưới gân cơ nhị đầu đùi. Nguyên nhân thường do vận động quá mức như đi bộ nhiều, leo núi, tập thể dục…
Viêm đầu dưới gân cơ nhị đầu đùi biểu hiện ở đau vùng đầu trên xương mác. Cơn đau tăng khi gấp gối hoặc ấn vào. Hầu như không có sưng, trừ trường hợp bệnh nhân xoa bóp vùng đau nhiều.
g. Viêm điểm bám gân lồi cầu trong xương chày
Gân chân ngỗng tạo bởi gân cơ may, cơ thon, cơ bán gân, bám tận ở lồi cầu tỏng xương chày. Quanh các gân này có các túi hoạt dịch nhỏ.
Viêm gân chân ngỗng biểu hiện sưng, đau vùng lồi cầu trong xương chay, có thể kèm theo nóng, đỏ. Có khi trên lâm sàng khó phân biệt với viêm bao hoạt dịch và hội chứng dây chằng bên chày của khớp gối. Chẩn đoán chính xác cần sự hỗ trợ của siêu âm và cộng hưởng từ khớp gối.
h. Viêm điểm bám gân lồi cầu ngoài xương đùi
Dải chậy chày tiếp nối cơ căng mạc đùi chạy ở lớp nông mặt ngoài của đùi đến bám vào lồi cầu ngoài xương đùi. Viêm dải chậy chày thường xảy ra ở người chạy nhiều.
Triệu chứng chính là đau vùng lồi cầu ngoài xương đùi, cơn đau tăng khi chạy. Ít khi có sưng nóng đỏ, ấn vào cùng lồi cầu ngoài xương đùi có điểm đau chói.
Điều trị
a. Điều trị tại chỗ
-
Điều trị không dùng thuốc
Bệnh nhân cần:
+ Hạn chế vận động gân bị tổn thương.
+ Trường hợp bệnh nhân đau nhiều có thể phải cố định tạm thời gân bị tổn thương bằng nẹp, máng bột…
+ Chườm lạnh nếu có sưng nóng đỏ.
+ Chiếu tia hồng ngoại, điều trị kick shock.
-
Điều trị bằng thuốc:
+ Thuốc giảm đau thông thường: acetaminophen…
+ Thuốc chống viêm không steroid đường uống hoặc bôi tại chỗ: dùng cho tới khi hết sưng đau.
+ Tiêm corticoid tại chỗ
Mục đích tiêm corticoid tại chỗ là đưa corticoid nồng độ cao tới vị trí gân, bao gân bị viêm. Khi tiến hành tiêm corticoid tại chỗ phải đảm bảo vô trùng tuyệt đối. Các chế phẩm thường dùng:
Hydrocortison acetat (nồng độ 1ml = 25mg). Đây là loại thuốc có tác dụng nhanh, thời gian bán hủy ngắn. Liều cho 1 lần tiêm quanh khớp từ 5 – 12.5mg (0.2 – 0.5ml) tùy vị trí tiêm. Tiêm không quá 3 lần cho mỗi đợt điều trị. Mỗi mũi tiêm cách nhay 3 – 4 ngày. Mỗi năm không quá 3 đợt.
Depo-Medrol (Methyl prednisolon acetat, nồng độ 1ml = 40mg). Thuốc có tác ụng kép dài. Liều cho một lần tiêm cạnh khớp từ 8 – 20mg/lần (0.2 – 0.5ml/lần) tùy thuộc vào vị trí. Mỗi mũi tiêm cách nhau 7 – 10 ngày. Không tiêm quá 2 lần trong 1 đoẹt. Mỗi đợt cách nhau 3 – 6 tháng. Một năm không tiêm quá 3 đợt.
Diprospan (Betamethason dipropioat, nồng độ 1ml = 4mg). Thuốc nà có tác dụng kéo dài. Liều dùng cho một lần tiêm cạnh khớp từ 0.8 – 2ml/lần (0.2 – 0.5ml/lần) tùy thuộc vị trí. Mỗi mũi cách nhay 7 – 10 ngày, không quá 2 lần trong một đợt. Mỗi đợt cách nhau 3 – 6 tháng, mỗi năm không quá 3 đợt.
Lưu ý: Chống chỉ định tuyệt đối tiêm corticoid tại chỗ:
. Các tổn thương do nhiễm khuẩn, nấm hoặc chưa loại trừ được nhiễm khuẩn (chống chỉ định tuyệt đối).
. Tổn thương nhiễm trùng trên hoặc gần vị trí tiêm.
Lưu ý: Chống chỉ định tương đối tiêm corticoid tại chỗ:
. Các chống chỉ định của corticoid: cao huyết áp, đái tháo đường, viêm loét dạ dày tá tràng, phải điều trị và theo dõi trước và sau tiêm.
. Đang dùng thuốc chống đông hoặc rối loạn đông máu.
Lưu ý: Các biến chứng do tiêm corticoid tại chỗ là rất ít nhưng có thể xảy ra gồm:
. Đau sau vài giờ tiêm. Cơn đau có thể kéo dài một vài ngày, thường hay gặp sau tiêm mũi đầu tiên.
. Nhiễm trùng.
. Teo da tại chỗ.
. Teo dây thần kinh do tiêm vào trong dây thần kinh.
. Mảng sắc tố da: thường gặp sau tiêm viêm bao gân De Quervain do tiêm quá nông, biểu hiện mảng da méo nó, sáng màu. Tình trạng này sẽ hết trong vài tháng đến 2 năm.
. Tái phát sau điều trị.
Đa số bệnh nhân đáp ứng tốt với điều trị nội khoa (90 – 95%). Song tỷ lệ tái phát còn cao nhất là đối với các bệnh nhân không được giáo dục các biện pháp phòng bệnh.
b. Điều trị bệnh chính nếu có
Các trường hợp viêm gân, bao gân kèm theo viêm khớp dạng thấp, viêm cột sống dính khớp, đái tháo đường… cần phải điều trị đồng thời và kéo dài các thuốc cơ bản cùng với chế độ sinh hoạt phù hợp.
c. Phẫu thuật
Phẫu thuật giải phóng chèn ép, cắt bỏ phần viêm nếu điều trị nội khoa thất bại
Benh ly viem diem bam gan va phan mem có chữa trị được không? Hy vọng bạn đã có câu trả lời và thông tin thiết thực nhất. Thiết bị y tế iMedicare chúc bạn và gia đình mạnh khỏe!