Có thể đã có những mẹ bầu biết về biến chứng thai kỳ này. Tuy nhiên, rất nhiều mẹ bầu khác vẫn chưa nắm được cụ thể về bệnh tắc mạch ối. Chúng ta cùng tìm hiểu qua nội dung trong bài viết.
Tắc mạch ối là gì?
Tắc mạch ối là do nước ối, tế bào của thai nhi, chất gây, tóc, lông tơ hoặc các mảnh mô khác lọt vào tuần hoàn của người mẹ, gây ra suy hô hấp và suy tuần hoàn cấp tính. Tắc mạch ối là một biến chứng thai kỳ rất nguy hiểm, tỷ lệ tử vong cao, không thể đoán trước và không thể dự phòng được.
Biến chứng này thường xảy ra trong chuyển dạ, cũng có trường hợp xảy ra khi mổ lấy thai, sảy thai, chấn thương bụng, chọc hút nước ối, thậm chí sau đẻ. Thời điểm tắc mạch ối rất khác nhau; trong đó 12% trường hợp xảy ra tắc mạch ối khi màng ối còn nguyên, 70% khi chuyển dạ, 11% xảy ra sau đẻ qua đường âm đạo, 19% trong mổ lấy thai khi chuyển dạ hay khi chưa chuyển dạ.
Triệu chứng của bệnh
Khởi đầu là suy hô hấp, tím tái xảy ra đột ngột trong vài phút. Tiếp đến là tụt huyết áp, phù phổi, choáng. Biểu hiện thần kinh như: lú lẫn, mất ý thức và co giật.
Nếu người bệnh qua được giai đoạn này (khoảng 40% số trường hợp) sẽ có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch.
Chảy máu từ tử cung không thể cầm được. Số trường hợp có biểu hiện phù phổi ở giai đoạn này cũng cao.
Nguyên nhân của bệnh
Bình thường, nước ối hoàn toàn nằm trong buồng ối, không đi vào tuần hoàn của người mẹ. Khi hàng rào ngăn cách giữa khoang ối và tuần hoàn của người mẹ bị phá vỡ. Có thể do sự chênh lệch áp lực, nước ối sẽ đi vào hệ thống tĩnh mạch của người mẹ (xoang tĩnh mạch tử cung) một cách bất thường qua các tĩnh mạch ống cổ tử cung, qua vị trí rau bám (nếu đã bong rau), qua nội mạc tử cung hay qua nơi tử cung bị chấn thương.
Các chuyên gia chưa thể lí giải vì sao nước ối vào tuần hoàn chỉ xảy ra ở một số ít sản phụ mà không xảy ra ở nhiều sản phụ khác.
Hậu quả và biến chứng
– Tử vong mẹ, con
– Hậu quả về tinh thần và vận động cho mẹ và con do thiếu oxy não
– Hội chứng Sheehan: chảy máu nặng có thể dẫn tới hoại tử một phần hoặc toàn bộ thùy trước tuyến yên gây suy tuyến yên, biểu hiện bằng dấu hiệu vô kinh, rụng lông, rụng tóc, suy tuyến giáp, suy tuyến thượng thận, mất sữa.
– Biến chứng khác: sự mất máu nhiều gây ảnh hưởng tới sức khỏe và tinh thần của sản phụ, có thể gây suy gan, suy thận, suy đa tạng, rối loạn đông máu và dễ nhiễm khuẩn hậu sản. Bên cạnh đó việc truyền máu điều trị chảy máu sau đẻ làm tăng các nguy cơ và biến chứng của truyền máu.
Phòng ngừa bệnh như thế nào?
Tắc mạch ối là một cấp cứu sản khoa không thể dự báo được, không thể dự phòng được. Và trong hầu hết các trường hợp là không thể điều trị được. Chưa có một can thiệp nào cho thấy cải thiện tiên lượng của sản phụ bị tắc mạch ối.
Tắc mạch ối thực sự là một thảm họa không chỉ đối với nhân viên y tế mà còn đối với cả gia đình sản phụ.
Mẹ bầu nào dễ có nguy cơ mắc bệnh?
– Mẹ bầu mang thai khi lớn tuổi
– Hoặc, đã từng mổ đẻ
– Mổ lấy thai khi có cơn chuyển dạ
Vì vậy, mẹ bầu thuộc những nhóm này phải thường xuyên kiểm tra trong quá trình mang thai. Cũng như quan sát cẩn thận trong quá trình sinh. Nếu có biểu hiện bất thường thì nên theo ý kiến chỉ đạo của bác sĩ.
Tắc mạch ối là bệnh lý đột ngột, không có triệu chứng báo trước. Số lượng trường hợp thấp nên chưa có các bằng chứng rõ ràng về yếu tố nguy cơ. Ở Hoa Kỳ, ước tính 1 trường hợp tắc mạch ối 8.000 – 30.000 thai nghén. Một nghiên cứu ở Canada từ năm 1991 – 2002 trên 3 triệu trường hợp đẻ trong bệnh viện cho thấy, tỷ lệ tắc mạch ối là 14,8/100.000 trường hợp đẻ đa thai, 6,0/100.000 đẻ một thai.
Tỉ lệ mắc bệnh không cao, nhưng để đảm bảo cho chính mình cũng như cho thai nhi. Các mẹ hãy nâng cao cảnh giác và trang bị sẵn cho mình những kiến thức cần và đủ. Việc làm này không thừa. Thậm chí có thể giúp mẹ bầu an tâm hơn trong suốt quá trình mang thai.