Đột quỵ não là hội chứng lâm sàng được đặc trưng bởi sự mất cấp tính chức năng của não, tồn tại quá 24 giờ hoặc tử vong trước 24 giờ. Việc phát hiện và điều trị dự phòng trước khi đột quỵ xảy ra là cực kỳ cần thiết và quan trọng, giúp người bệnh có thể tránh được đột quỵ.
>> Dấu hiệu đột quỵ giữa nam và nữ
>> Di chứng tai biến mạch máu não
Những ai có thể bị đột quỵ não?
Ðột quỵ não không loại trừ lứa tuổi và giới tính, tuy nhiên đột quỵ tăng theo tuổi, đối với mỗi thập niên sau 55 tuổi, nguy cơ đột quỵ tăng gấp hai lần. Yếu tố nguy cơ của đột quỵ bao gồm tăng huyết áp (60-75%), vữa xơ động mạch (35%), bệnh lý van tim (12-15%), đái tháo đường (15-25%), rối loạn lipid máu (40-57%), nghiện thuốc lá (30-35%), nghiện rượu (25-30%), béo phì, thiếu máu não thoảng qua (15%)… Tỷ lệ tử vong do đột quỵ đứng thứ hai (9%) sau ung thư trên toàn thế giới, đứng thứ ba sau bệnh ung thư và tim mạch ở Mỹ. Tỷ lệ tử vong do đột quỵ não ở Việt Nam chiếm 10-12% so với tổng số tử vong nói chung.
Vậy cần làm gì để biết trước khả năng bị đột quỵ?
Để biết trước điều này không còn cách nào khác là phải biết hệ mạch não, hệ mạch từ tim lên não cũng như các yếu tố đông cầm máu trong cơ thể.
Đối với nhóm người trẻ tuổi, khả năng bị đột quỵ là do có bệnh lý dị dạng động tĩnh mạch não bẩm sinh, phồng động mạch não bẩm sinh; tắc mạch não do biến chứng hẹp van hai lá gây rung nhĩ, tạo thành máu quẩn ở tim trôi lên não hoặc các bệnh về máu như xuất huyết giảm tiểu cầu, sốt xuất huyết. Vậy trước tiên cần làm là khám sức khỏe định kỳ xem có các bệnh về máu không, kiểm tra tim mạch xem có bị bệnh lý van tim không? Với trẻ hay đau đầu, co giật động kinh, chậm nhận thức, nên kiểm tra mạch máu não bằng chụp cộng hưởng từ mạch máu não hoặc chụp cắt lớp vi tính nhiều lớp cắt dựng mạch. Khi có nghi ngờ thì chụp mạch số hóa xóa nền (DSA) để xác định rõ tổn thương.
Đối với người có yếu tố nguy cơ cao như tăng huyết áp, đái tháo đường, béo phì, rối loạn lipid máu, bệnh lý tim mạch, vữa xơ động mạch, cơn thiếu máu não thoảng qua, nghiện rượu, nghiện thuốc lá… thì việc quan trọng là khảo sát hệ mạch máu não, hệ mạch cảnh, động mạch chủ và tim. Xác định xem mạch máu não có bị phình, bị dị dạng, bị chít hẹp hoặc có cục máu quẩn trong tim không? Người bệnh cần làm điện tim, siêu âm tim, siêu âm hệ động mạch chủ và hệ động mạch cảnh và tốt nhất là chụp được hệ mạch máu não bằng cộng hưởng từ hoặc CT scanner đa lớp cắt mạch máu.
Đối với người trên 55 tuổi, đây là nhóm có khả năng bị đột quỵ cao, chủ yếu do nhồi máu não huyết khối hoặc chảy máu não do vỡ các phình mạch, tăng huyết áp. Cần khảo sát kỹ hệ động mạch cảnh, hệ động mạch não bằng siêu âm và cộng hưởng từ mạch, CT đa lớp cắt dựng mạch hoặc chụp mạch máu máu não DSA.
Phòng tránh đột quỵ xảy ra như thế nào?
Đối với bệnh nhân có rung nhĩ, hình thành cục máu từ tim, đây là nguyên nhân đột quỵ thể tắc mạch do cục tắc ở tim bơm trôi lên não. Việc điều trị bao gồm thuốc chống đông máu, chống kết tập tiểu cầu để làm tan cục máu quẩn và điều trị chống loạn nhịp tim.
Khi bị hẹp lòng mạch, nếu động mạch não bị hẹp dưới 75% mà chưa có triệu chứng lâm sàng thì uống thuốc chống kết tập tiểu cầu, hạ lipid máu, hạ huyết áp, kiểm soát đường máu có thể ngăn chặn sự phát triển mảng vữa xơ, làm lòng mạch được thông suốt hơn, ngăn chặn hình thành cục máu đông, từ đó ngăn chặn được đột quỵ thiếu máu não. Khi hẹp trên 75% chưa có triệu chứng lâm sàng hoặc trên 50% mà có triệu chứng thiếu máu não thì tiến hành đặt stent lòng mạch, người ta đặt các vòng lò xo kim loại có tác dụng mở rộng lòng mạch, tránh hẹp tắc.
Nếu phát hiện có phình mạch hoặc các ổ dị dạng động tĩnh mạch thì tiến hành nút coils túi phình hoặc nút ổ dị dạng bằng chất keo sinh học. Đây là các kỹ thuật tiên tiến, không phải mở sọ não và thu được kết quả rất tốt, giúp tránh bị đột quỵ chảy máu não.
Ngoài ra phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ về lối sống như hút thuốc lá, nghiện rượu, ăn nhiều chất béo, béo phì. Kiểm soát thật tốt các yếu tố nguy cơ như tăng huyết áp, đái tháo đường, tăng lipid máu, rối loạn nhịp tim.